05/12/2023 14:48 | gocnhinonline

GNO- Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP/năm để thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, đầu tư vào khả năng phục hồi khoảng 254 tỷ USD và 114 tỷ USD cho hành trình khử carbon theo cam kết với cộng đồng quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam sẽ cần khoản đầu tư khổng lồ trong thời gian tới, đặc biệt là nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh.

Đây là một thông tin được trao đổi tại Hội thảo “Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh” do Báo Đầu tư tổ chức ngày 4/12.

Hội thảo “Dẫn nguồn vốn lớn cho tín dụng xanh” – Ảnh: VGP

Cần nguồn vốn lớn nhưng còn nhiều vướng mắc

Theo các chuyên gia, tại Hội nghị COP26 vào tháng 11/2021, Việt Nam cam kết đạt phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Trong quãng thời gian 2 năm từ COP26 đến COP28 (diễn ra tại Dubai tháng 11/2023), Việt Nam đã lên kế hoạch để thực hiện các cam kết và một trong những nhiệm vụ quan trọng là huy động nguồn lực tài chính cho quá trình chuyển đổi.

Báo cáo quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam được Ngân hàng Thế giới ước tính, Việt Nam cần đầu tư thêm khoảng 368 tỷ USD đến năm 2040, tương đương 6,8% GDP/năm để thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong đó, đầu tư vào khả năng phục hồi khoảng 254 tỷ USD và 114 tỷ USD cho hành trình khử carbon theo cam kết với cộng đồng quốc tế. Điều này đòi hỏi Việt Nam sẽ cần khoản đầu tư khổng lồ trong thời gian tới.

Theo ông Nguyễn Bá Hùng, chuyên gia Kinh tế trưởng Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, khi nói về thị trường tài chính xanh, thường chúng ta mới chỉ nhắc tới bên cung cấp tín dụng và bên sử dụng vốn, nhưng với thị trường tài chính xanh thì rộng hơn, bao gồm: Chính phủ có vai trò quan trọng, ban hành luật lệ và cơ chế khuyến khích; các doanh nghiệp xanh thực hiện hoạt động sản xuất xanh và người tiêu dùng xanh… Đây là điểm mới của kinh tế xanh bởi kinh tế thông thường không quá quan tâm tới người tiêu dùng và hoạt động sản xuất như thế nào.

Do đó, việc đầu tiên cần làm là xây dựng các tiêu chuẩn với sản xuất xanh, tiếp đó là tài chính xanh. Hiện tại, hoạt động chuyển đổi sản xuất xanh đang dựa nhiều vào sự tự nguyện, ý thức chuyển đổi của doanh nghiệp, tuy nhiên xu hướng là Chính phủ ngày càng ban hành các quy định buộc doanh nghiệp phải áp dụng.

Thực tế ở Việt Nam, hiện nay vốn tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn lực chính cho các dự án xanh. Bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế, (NHNN) cho biết: Đến 30/9/2023, dư nợ cấp tín dụng xanh đạt hơn 564 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng khoảng 4,4% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Trong số 12 lĩnh vực xanh NHNN hướng dẫn các tổ chức tín dụng (TCTD) cho vay, dư nợ tập trung chủ yếu vào các ngành năng lượng tái tạo, năng lượng sạch (chiếm gần 45%) và nông nghiệp xanh (hơn 30%).

Dưới góc độ ngân hàng thương mại, bà Phùng Thị Bình, Phó Tổng Giám đốc Agribank chia sẻ, dư nợ cho vay đối với các lĩnh vực xanh của Agribank cũng có sự tăng trưởng ổn định qua từng năm. Cụ thể, giai đoạn 2018-2020, dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng nhanh chóng từ 100-380%/năm (từ xấp xỉ 2.000 tỷ đồng năm 2018 lên hơn 13.000 tỷ đồng năm 2020).

Đến 31/10/2023, dư nợ cho vay đối với lĩnh vực xanh tại Agribank đạt hơn 12.000 tỷ đồng, với gần 42.000 khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ lĩnh vực lâm nghiệp bền vững khoảng 7.000 tỷ đồng, chiếm 55% tổng dư nợ tín dụng xanh; tiếp đến là lĩnh vực năng lượng tái tạo, năng lượng sạch với dư nợ đạt gần 3.000 tỷ đồng, chiếm 22% tổng dư nợ tín dụng xanh; thứ ba là lĩnh vực nông nghiệp xanh với dư nợ gần 2.000 tỷ đồng, chiếm 16% tổng dư nợ tín dụng xanh.

Ngân hàng Agribank đang phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn triển khai thực hiện Quyết định số 1490/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27/11/2023 nhằm thực hiện mục tiêu đến năm 2030 hình thành 1 triệu héc-ta vùng chuyên canh lúa chất lượng cao và phát thải thấp gắn với tổ chức lại hệ thống sản xuất theo chuỗi giá trị, áp dụng các quy trình canh tác bền vững nhằm gia tăng giá trị, phát triển bền vững của ngành lúa gạo, nâng cao hiệu quả sản xuất – kinh doanh, thu nhập và đời sống của người trồng lúa, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm phát thải khí nhà kính, góp phần thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.

Bà Phùng Thị Bình, Phó Tổng Giám đốc Agribank – Ảnh: VGP

Bà Lâm Thúy Nga, Giám đốc toàn quốc Khối khách hàng Doanh nghiệp lớn, HSBC Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đón nhận dòng vốn xanh thì còn nhiều yếu tố cần cải thiện, nhất là việc đáp ứng các quy chuẩn của thị trường tín dụng quốc tế. Ngoài tiêu chuẩn tín dụng xanh nghiêm ngặt của ngân hàng, HSBC còn xem xét tham vọng và sự nghiêm túc của doanh nghiệp đối với dự án xanh nói riêng cũng như phát triển bền vững nói chung, việc cung cấp một khoản vay cho khách hàng phải trải qua quá trình thẩm định nghiêm ngặt và phải tương thích với các tiêu chuẩn của Hiệp hội Thị trường cho vay châu Á – Thái Bình Dương, tiêu chuẩn này cũng cao hơn so với ngân hàng trong nước.

Khẩn trương hoàn thiện hành lang pháp lý

Tại Hội thảo, dưới góc độ quản lý, bà Phạm Thị Thanh Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Tín dụng các ngành kinh tế (NHNN) cho rằng: Bên cạnh các kết quả đạt được, để tín dụng xanh phát triển cần tiếp hoàn thiện hành lang pháp lý.

Một là, cần có hướng dẫn về Danh mục xanh và tiêu chí xác định dự án xanh phù hợp với phân ngành kinh tế của Việt Nam làm cơ sở cho các TCTD có căn cứ thẩm định, đánh giá và giám sát khi thực hiện cấp tín dụng xanh.

Hai là, xây dựng lộ trình thực hiện các cơ chế chính sách hỗ trợ các ngành xanh (thuế, phí, vốn, kỹ thuật, thị trường, đến quy hoạch, chiến lược phát triển…) của từng ngành/lĩnh vực một cách đồng bộ nhằm thu hút và phát huy hiệu quả của nguồn vốn tín dụng xanh.

Ba là, cần nghiên cứu, xây dựng cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu xanh, tạo kênh huy động vốn cho các chủ đầu tư có thêm nguồn lực triển khai các dự án xanh.

“Phía các doanh nghiệp muốn phát triển dự án xanh thì cần phối hợp cung cấp đầy đủ các thông tin về môi trường liên quan để được TCTD thẩm định cho vay thực hiện dự án, kiểm soát chất lượng khoản vay; đồng thời, nâng cao trách nhiệm ý thức bảo vệ môi trường khi thực hiện dự án”, bà Phạm Thị Thanh Tùng nhấn mạnh.

Đại diện Công ty Luật quốc tế VILAF cho rằng: Điều cần thiết là phải xác định rõ ràng các nguồn năng lượng “xanh”. Định nghĩa này sẽ cung cấp nền tảng pháp lý, xác định nguồn nào đủ điều kiện tiếp cận vốn xanh, thông qua các ngân hàng địa phương và các tổ chức tài chính quốc tế. 

Ngân hàng Standard Chartered là ví dụ điển hình. Standard Chartered cũng có mặt ở COP28 tại UAE và họ cũng đã ký Biên bản ghi nhớ về vấn đề này nhằm cung cấp hỗ trợ các giải pháp tài chính xanh, hỗ trợ Việt Nam trong quá trình chuyển đổi năng lượng xanh.

theo Anh Minh (báo Chính phủ)

Bài viết cùng chuyên mục